Hà dẫn Lân ra nơi vắng vẻ, rồi ngay lập tức bảo chàng rút kiếm ra.
Hà mới nói, “Hoàn đệ. Khi chiến đấu với Trương Nhu, huynh thấy đệ có vận một chiêu của Hạc kiếm pháp. Giờ đệ hãy thử nó với ta đi.” Rồi cũng rút cây đao của mình ra.
Thừa Lân lại nhớ về chiêu Phiêu Tuyết Xuyên Vân, nhẩm thật kỹ trình tự xuất chiêu, rồi mới tung một nhát chém về phía Ô Di Hà. Nhưng chàng vừa mới vung kiếm thì Ô Di Hà đã sát lại gần, khuỷu tay thọc vào cổ tay chàng, tay kia suýt nữa tóm được chàng mà vật xuống đất. Nếu không vì Thừa Lân phản xạ kịp thời thì đã bị tóm gọn rồi.
Ô Di Hà lui lại rồi chậm rãi nói, “Thời gian ra chiêu của đệ chậm quá, nếu như khi đó không phải Trương Nhu đang đau đớn và phải quần ba chúng ta cùng một lúc, hắn đã có cơ hội gây tử thương cho đệ.”
“Quả thực có nhiều điều đệ phải ghi nhớ mới làm được,” Lân đáp.
“Không cần phải làm thế. Thuần thục là khi ta là chiêu mà chiêu là ta. Nếu như vẫn phải suy nghĩ thì vẫn là chưa làm chủ chiêu thức.” Ô Di Hà nói, “Thân rỗng thì khí mới chạy. Đệ nhất định phải để cho đầu óc trống rỗng, thông hanh, mới thổ nạp được nội công, ra chiêu mới thuần thục. Giờ đệ hãy bắt đầu lại từ cái cơ bản. Đừng cố gắng ghi nhớ, mà hãy cố gắng điều hòa nhịp thở.”
Thừa Lân chợt nhớ lại lúc mình khai mở nội công của mình lần đầu, cũng là lúc tâm của chàng tĩnh lặng nhất. Trong vài ngày qua chiến sự hỗn loạn, chàng bị cuốn theo nhịp độ của kẻ khác mà quên mất những điều tối cơ bản trong võ học.
“Ni Kham sư phụ đã dạy đệ thở thế nào, đệ hãy làm lại xem.”
Thừa Lân làm theo. Ô Di Hà chăm chú quan sát, mới nhận ra là dường như sư phụ chàng hoặc chưa quá coi trọng nhịp thở, hoặc không để ý đến một sai lầm trong việc điều hòa hô hấp của Thừa Lân.
“Hoàn đệ. Hãy thở ra bằng những nhịp nhanh, ngắn. Để dưỡng khí tích tụ được thẩm thấu vào trong kinh mạch, để chúng kịp hoán đổi với chướng khí trong cơ thể, như vậy mới có thể tuần hoàn.”
Thừa Lân mới vỡ ra. Chàng tập hít thở thêm chục lần. Dòng khí lạnh ngắt trong kinh mạch của chàng giờ chuyển nóng ấm, chạy dần từ đỉnh đầu xuống ngực, rồi xuống bụng. Chàng điều chúng đi vào những ngóc ngách khác nhau trên ngực mình, đã có thể được.
Ô Di Hà mới nói, “Giờ hãy biểu diễn lại chiêu thức vừa rồi cho huynh xem.”
Thừa Lân thực hiện lại chiêu Phiêu Tuyết Xuyên Vân. Ô Di Hà lại bất ngờ đánh đến, nhưng lần này như thể kinh mạch trong cơ thể cậu tự điều hướng, đầu óc quang đãng, cơ thể tự ra chiêu như thể Phiêu Tuyết Xuyên Vân đã nằm trong tiềm thức. Ô Di Hà chưa kịp áp lại gần giải giới, đã bị mũi kiếm đe dọa, phải nhảy ngược trở lại.
“Khá; khá lắm!” Ô Di Hà vỗ tay. “Đến khi đệ có thể tách nội khí của mình ra thành nhiều phần nhỏ, là đệ sẽ đạt tới cảnh giới của ta. Ngươi có thể vận một phần nội khí thành ngoại kình, như thế này này,” Nói rồi, Ô Di Hà đưa hai ngón tay ra phía trước, một chỉ chọc thẳng vào một thân cây bên cạnh. Màu sắc nâu trầm bắn ra từ đầu ngón tay Hà, bắn tróc cả vỏ cây, đục một lỗ sâu tầm hai phân lên đó, dù cho đầu ngón tay Hà còn chưa chạm vào bề mặt cây.
“Còn lên tầng thứ tư nữa thì sao?” Lân hỏi.
“Lên đó thì thực tình ta cũng chưa được biết. Ta cũng chưa quen ai đạt được nội công tầng thứ tư, nên cũng không mường tượng được cảm giác như thế nào. Ngày mai, chúng ta cùng đi hỏi Quỳ cốc chủ một phen xem sao. Nhưng còn bây giờ thì ta và đệ cùng luyện tập. Ta thấy đệ có tư chất tốt, nhưng bắt buộc phải đột phá nhanh. Tình thế cấp bách rồi, phải là kẻ mạnh mới có thể bảo vệ bản thân và những người mình thân yêu.”
“Những lời huynh dặn, đệ ghi nhớ kỹ, không dám trễ nải.”
Cả đêm hôm đó, Hoàn Thừa Lân luyện nhịp thở và kiếm thuật, chong đèn giở Hàn Cầm Kiếm Phổ ra cùng Ô Di Hà luyện kiếm pháp, tới tờ mờ sáng mới trở về sơn cốc.
Cách Quỳ Trang sơn cốc năm trăm dặm, tại Cư Dung quan, Thông Châu, Vạn Lý Trường Thành…
“Triết Biệt trở về! Triết Biệt trở về!” Tiếng hô hoán của lính canh bên ngoài cổng quan kêu lên, ngay sau đó ngân vang tiếng tù và Mông Cổ từ phía xa xôi. Trời còn chưa chuyển sáng, nhưng ai nấy đều đã bật cả dậy, không kẻ nào có thể ngủ nổi nữa. Đuốc đốt lên sáng quắc, hỏa sắc
bập bùng ngập tràn không trung.
Trong thành bát nháo vô cùng, dân đen qua người lại xô đẩy lẫn nhau, ra ngoài cất hết mọi tài vật vào trong nhà, chốc chốc lại nghe tiếng tri hô, lẫn cả vào nhau thành tạp nham không ra âm điệu gì. Không thể nhận ra hàng ngũ, kỷ cương của một quân đội chỉ năm ngày trước đã đẩy lùi một cuộc tiến công của nữ tướng Mông Cổ Hoa Tranh. Chỉ hai từ ‘Triết Biệt’ thôi đã đẩy bọn họ vào rối loạn cực hạn.
Vạn Lý Trường Thành là công trình đồ sộ được xây nên từ thời Tần Thủy Hoàng, trải dài một vạn cây số, đông tiếp giáp Bột Hải, tây kéo tận tới Tân Cương, suốt hàng trăm năm qua người Mông Cổ dù có vượt qua cũng bị đánh đuổi ngược trở lại. Sau khi chính Kim Thái Tổ phá Liêu lập quốc, ông đã cho trùng tu lại Vạn Lý Trường Thành để đề phòng tình cảnh tương tự xảy ra với mình, thành thử trường thành càng thêm thập phần vững chãi. Tuy tình cảnh ngặt nghèo và đã bị bao vây ba phía, Cư Dung quan vẫn là một trong số những thành trì đông quân nhất của Kim quốc, với quân số lên tới tám vạn. Dù đã vượt qua vài tiểu quan của Vạn Lý Trường Thành, quân Mông Cổ vẫn cần chiếm được yếu điểm quan trọng này để có thể dễ dàng vận lương và tổ chức hậu cần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Vị trí đắc địa này vài tháng nay đã không lấy được, cộng thêm việc tể tướng Kim triều đương thời là Truật Hổ Cao Kỳ đã huy động được quân đội đông đảo lên tới bốn mươi vạn người, sẵn sàng tiêu diệt toàn bộ quân Mông Cổ của Mộc Hoa Lê tại Dã Hồ Lĩnh.
Trong khi quân sĩ trong thành còn hỗn loạn, một tiếng cồng lớn vang lên trên bức tường thành. Một viên tướng lưng hùm vai gấu gầm lên một tiếng, thét lớn, “Tại sao các ngươi phải sợ? Thành quách chúng ta suốt cả năm nay đều giữ vững, thậm chí còn đánh đuổi bọn chúng phải chạy ngược về! Triết Biệt cũng chỉ là một cái tên khác thôi! Các ngươi hãy nhìn đây, hôm nay một kiếm ta sẽ chặt đầu Triết Biệt!”
Vị tướng đó hét lớn vài tiếng. Quân sĩ như được truyền sĩ khí, ai nấy đều xốc lại tinh thần, gươm giáo sáng lòa đồng loạt giương lên trời cao. Vị tướng đó mang tên Hoa Sung.
Phía sau Hoa Sung là nghĩa đệ Hỗ Quan Lặc và Bắc phương phòng thủ trấn Lý Khắc Phương. Tuy Khắc Phương là văn quan, không có chút tài nghệ võ học nào, hai phó tướng Hoa Sung và Hỗ Quan Lặc đều là cao thủ võ lâm, tiếng tăm lừng lẫy khắp đất nước.
Hoa Sung sức mạnh vô địch Thông Châu, mới hai mươi tuổi đã tay không bắt sơn dương, săn sư tử làm vui. Hỗ Quan Lặc là dòng dõi công thần dựng quốc Hỗ Thanh Nghi, được truyền lại Hỗ Gia Kích Pháp nổi danh thiên hạ, lại là đệ tử nội môn của Cương Giản phái. Lý Khắc Phương nhờ có hai vị này mà giữ được Cư Dung quan hàng tháng trời, giữ cho phần lớn dải Vạn Lý Trường Thành phần nào yên ổn.
Khắc Phương đứng trên tường thành, quắc mắt trông ra xa, nơi mà hàng ngàn kỵ binh Mông Cổ ùn ùn kéo đến, vó ngựa trên nền cát khiến cho sỏi đá bắn lên, không trung ngập tràn cát bụi như nổi trận sa bão. Tướng của bọn chúng là Hoa Tranh vừa thất bại ở đây vài ngày trước, nên quân Kim không ngờ rằng chúng đã quay trở lại nhanh như vậy. Khắc Phương đã lo lắng Triết Biệt sẽ mang theo đại quân, nhưng nhìn kỹ thì số lượng quân hắn mang tới cũng chỉ cùng lắm năm ngàn, không hơn gì Hoa Tranh lần trước.
Hỗ Quan Lặc đứng sau Khắc Phương, cùng nhìn xuống tường thành mà hỏi, “Lý trấn trưởng, ta nên đóng cổng thành hay dàn cung thủ?”
Lần trước, Khắc Phương đã đánh Hoa Tranh bỏ chạy chối chết, chỉ hận một nỗi không thể bắt sống tướng địch. Cư Dung quan đã sáu trận giao tranh với Hung Nô, chưa thất bại lần nào, khiến y càng thêm thập phần tự tin. Triết Biệt tới chỉ có năm nghìn quân, nếu không nhân cơ hội này mà bắt sống hắn thì còn đợi đến bao giờ? Nếu như có cơ hội để lập đại công cho Kim quốc, lưu danh vào sử sách ngàn đời, thì chỉ có bây giờ.
Khắc Phương đáp, “Mở thành giao chiến.”
0