Sương đêm về nặng nề, quắc mắt nhìn kỹ càng nhất cũng không thấy nổi hàng cây tùng xà ở cánh rừng cách chưa đầy một dặm. Ô Di Đạo cùng các huynh đài một bọn hai mươi ba người quây quần, đánh chén một bữa no say, nhưng lửa đốt cũng phải bịt sỏi đá kín mít để khói không bốc lên nhiều.
“Mấy hôm nay chúng ta đi săn còn phải hạn chế,” Ô Di Hà nói với Hoàn Thừa Lân, “Quân Mông Cổ đã biết vị trí của chúng ta ở đâu, bọn chúng đang cử trinh sát ráo riết, nếu không vì đại quân phải tiếp tục chinh chiến thì chúng ta đã vong mạng hết rồi. Kì thực là may mắn lắm mới gặp được thiếu hiệp.” Rồi tiếp lời, “Xin thiếu hiệp đừng khách sáo. Ni Kham kiếm pháp không thuộc chính tông nào, số lượng môn đệ thu nhất chỉ đếm trên đầu ngón tay, cũng tự cổ chí kim chưa bao giờ tham gia vào t·ranh c·hấp môn phái, nhưng không vì thế mà bọn ta khinh miệt. Giờ đây quốc gia lâm nguy, dù là người từ tông phái nào cũng có chung một kẻ thù. Nếu thiếu hiệp không chê bọn ta hạng tiểu tướng vô danh, thì xin cứ gọi bọn ta là huynh.”
Thừa Lân vội vàng tạ lễ, gật đầu đồng ý lập tức. Nghi thức kết huynh đệ của họ vô cùng đơn giản: với người Dã Nhân, mọi chuyện kết thân đều từ những bình túy tửu. Hai người họ tu hết một âu rượu, thế là thành huynh đệ.
Ô Di Hà trọng vọng Thừa Lân vô cùng, cho ngồi chung mâm với tứ chủ Thiết Lĩnh, gồm nhất ca Ô Di Hà, nhị ca Kiều Sinh Nhai, tam ca Cổ Mạnh Ninh và tứ ca Ô Di Đạo. Phần lớn người trong bọn Ô Di Hà đều xuất thân bần nông hoặc du mục, thậm chí có cả hai ba kẻ vốn phường sơn phỉ, nay cũng góp sức vì đại nghĩa. Khác với những người kia, bốn người này không từng làm tướng lĩnh triều đình thì cũng xuất thân từ Tắc Kỷ tông giáo từng tiếu ngạo khắp bình nguyên Bắc cực.
0