0
Trên đỉnh Xích Dương, hơn mười vị trưởng lão chia làm hai đội bay ra, bảo vệ cho đệ tử của mình trở về, đồng thời g·iết được không ít hỏa giác thứu.
Bọn giáo đồ thấy thế liền điều khiển bầy giác thứu tản ra bỏ chạy, chợt nghe có tiếng kèn lệnh thu quân, tiện tay mang theo đám quân tiên phong rút về trận doanh.
Chúng trưởng lão cũng không đuổi g·iết quá gắt gao, một mặt để dành linh lực chiến đấu với lực lượng chủ chốt của Vô Âm giáo, một mặt cũng đang muốn kéo dài thời gian.
Bọn họ tiến đến biên giới trận pháp phòng hộ thì dừng lại, muốn nhổ mấy cây trụ nhưng chẳng thấy đâu nữa, mà lỗ thủng trên trận pháp thì vẫn không khép lại được.
Trong khi đó, Vô Âm giáo cũng cử ra mười hai người giữ chức vị thánh sứ, tới đối đầu với các trưởng lão. Chiến đấu ở cấp độ này, quân số dẫu không nhiều nhưng lại giữ vai trò quan trọng, thông thường hai bên sẽ không tùy tiện lao vào nhau.
Tuy nhiên, Vô Âm giáo đã hiểu rõ nội tình của Thất Dương tông, công pháp của từng người tu luyện ra sao, ai có điểm mạnh điểm yếu thế nào đều nắm trong lòng bàn tay.
Mười hai thánh sứ xuất chiến đều được phân chia mục tiêu rõ ràng, vừa đủ để chiếm ưu thế trước đối phương, ngay khi tới gần liền t·ấn c·ông như vũ bão, nhanh chóng giành lấy thế thượng phong.
Chúng trưởng lão cảm thấy đơn đả độc đấu dường như không ổn, chợt lùi lại, xếp thành hai vòng tròn lồng vào nhau. Tiến thoái nhịp nhàng, biến hóa linh hoạt, vừa phòng thủ nghiêm mật, cũng có thể tùy thời phản kích.
Đội hình này được gọi là Thất Tinh Song Luân trận, ban đầu chỉ gồm bảy người, do Thất Tinh Lão Tổ phỏng theo Thất Dương đại trận ngẫu hứng sáng tạo nên, truyền cho các đệ tử để chúng tự bảo vệ bản thân, đến đời tông chủ thứ tư thì được hoàn thiện, về sau lại tăng dần số lượng lên.
Tuy nhiên, thế trận này, cùng với tất cả các phép biến hóa của nó, từ hàng ngàn năm trước đã bị Sử Toán Anh phát hiện ra một vài chỗ sơ hở bên trong, nghĩ ra được cách hóa giải.
Lúc này, mười hai thánh sứ cũng lập tức dàn trận, một người đứng ở vị trí trung tâm, bốn người chia nhau trấn giữ đông tây nam bắc, bảy người còn lại tỏa ra tám hướng xung quanh, để trống mặt đông bắc.
Mỗi khi Thất Tinh Song Luân trận biến đổi, trận hình của mười hai thánh sứ cũng biến đổi theo, không sai lấy một li, gắt gao khống chế không cho đối phương có cơ hội trở mình.
Kết trận chính là để khuếch đại khả năng của từng người lên, nhằm tăng mạnh sức chiến đấu. Nhưng nếu bản thân mỗi người vốn đã thua kém, ngay cả trận hình cũng thua kém nốt, vậy thì sự thua kém đó cũng sẽ nhân lên gấp bội.
Chợt nhận ra điều này, yếu tố bất ngờ càng khiến các trưởng lão Thất Dương tông trở nên luống cuống tay chân. Đang ở thế hạ phong, nay lại lộ ra điểm yếu trí mạng, mười hai thánh sứ liền chớp lấy thời cơ, t·ấn c·ông dồn dập hơn.
Lại qua chưa đầy mười hơi thở, trận hình của các trưởng lão đã bị phá vỡ, mỗi người phân tán một nơi, bộ dạng đầy chật vật, trong đó còn có hai người b·ị t·hương nặng.
“Tạ sư huynh.”
“Từ sư đệ.”
Mười hai trưởng lão đồng thanh hô lên, lao tới đỡ lấy hai người Tạ Từ. Lại thấy Vô Âm giáo chuẩn bị hạ đòn sát thủ, bọn họ vội xuất ra các loại bảo mệnh pháp bảo, không tiếc hao tổn chân khí thi triển bí thuật, bảo hộ nhau để rút lui.
Thất Dương tông lần lượt phái thêm hai mươi, rồi năm mươi trưởng lão xuống tiếp ứng, lập thành Thất Tinh Liên Hoàn Luân trận. Ngay tức khắc, Vô Âm giáo cũng có hành động đáp trả, cử thêm bốn mươi tám thánh sứ tiến vào vòng giao tranh.
Hàng trăm tu sĩ đối chọi với nhau trên bầu trời, thuật pháp không ngừng v·a c·hạm, lúc sáng lúc tối, che mờ cả nhật nguyệt, ầm ầm chấn động, muốn phá vỡ càn khôn.
Càng đánh, Vô Âm giáo càng tỏ rõ sự vượt trội, dần đẩy Thất Dương tông lui về trận địa của mình. Phía sau, đại quân của Vô Âm giáo cũng đã rục rịch sẵn sàng, chỉ chờ các vị thánh sứ mở ra được một con đường huyết mạch là sẽ lập tức tràn lên.
“Hừ, thật to gan hết sức!”
Nhưng đúng lúc này, bỗng có một giọng nói uy nghiêm, vang dội như sấm rền, truyền khắp trên trời dưới đất, tựa hồ ở bất cứ nơi đâu trong Thất Dương tông cũng có thể nghe thấy.
Xích Dương phong đột nhiên rung chuyển dữ dội, phần đỉnh dần tách ra bốn hướng đông tây nam bắc, mặt trong vô cùng nhẵn nhụi, như có ai đó dùng một lưỡi thiên đao bổ dọc xuống.
Tại khoảng trống vừa xuất hiện lộ ra một tòa tế đàn màu nhũ bạch, trông cực kỳ cổ xưa, tuy nhiên các hình thù chạm trổ điêu khắc trên đó, có nhật nguyệt lẫn tinh thần, có long tượng cùng muôn thú, có sông núi với cỏ cây, có mây bay theo gió cuốn, toàn bộ đều được bảo trì hoàn mỹ, lại sống động như vật thật.
Giữa tế đàn có bảy cái tọa đài hình ngũ giác. Một cái đặt ở trung tâm, Lạc tông chủ đang khoanh chân ngồi tại đó, tay phải nâng ngũ hành phong lôi ấn, nét mặt không giận tự uy, nhìn chằm chằm Vô Âm giáo chủ.
Sáu cái tọa đài còn lại vây lấy xung quanh, hướng tây bắc là Hoàng Dương phong chưởng tọa, hướng đông nam là Lục Dương phong chưởng tọa, hướng chính bắc là Lam Dương phong chưởng tọa.
Hướng tây nam là một người mặc y phục có đến bảy tám phần giống với giáo đồ Vô Âm giáo, mang một chiếc mặt nạ màu vàng đồng, chính là Tranh Dương phong chưởng tọa. Hai tọa đài hướng chính nam và đông bắc thì bỏ trống.
Sau nửa ngày để chuẩn bị, tòa tế đàn này rốt cuộc đã có thể sử dụng. Lạc tông chủ nhìn những đệ tử đã bỏ mình dưới chân núi, trong lòng đầy thương cảm, sau đó quét mắt về phía Vô Âm giáo chủ mà quát rằng:
“Vô Âm giáo nhiều lần x·âm p·hạm Thất Dương tông đều chuốc lấy thất bại, nay các ngươi lại cả gan tiến vào tận nơi đây, không s·ợ c·hết không có chỗ chôn hay sao?”
Vô Âm giáo chủ nhìn lướt qua tòa tế đàn, hơi dừng lại ở vị trí của Tranh Dương phong chưởng tọa. Trình Trọng Minh tiến đến bên cạnh, khẽ nói:
“Đây chỉ là một kẻ tùy tiện được thêm vào để đánh lừa chúng ta mà thôi, thế nên mới phải đeo mặt nạ, giáo chủ không cần lo ngại.”
Vô Âm giáo chủ cũng cho là như thế, lại hướng ánh mắt về phía Lạc tông chủ, bình tĩnh nói:
“Lũ vô dụng các ngươi, bản thân không có chút thực lực nào, chỉ biết dựa dẫm vào trận pháp do lão tổ để lại, rúc vào một xó để sống tạm bợ qua ngày, vậy mà cũng dám lớn lối trước mặt ta.
Nay bọn ngươi chỉ có bốn người thì còn làm được gì, sao không lo chạy đi để được toàn mạng, tìm một nơi hẻo lánh tiếp tục cuộc sống trốn chui trốn nhủi, như loài chuột chũi khuất mắt người đời.”
“Ha ha ha!”
Đột nhiên, trên phần đỉnh núi phía tây, từ bên trong Xích Dương điện bỗng truyền ra tiếng cười đầy khinh miệt, sau đó là một giọng nói già nua, nhưng vừa trầm ổn vừa rõ ràng, lời lẽ trào phúng mà vẫn tràn đầy hào khí.
“Vô Âm giáo dắt díu nhau đến nhà người khác làm loạn, ta còn tưởng lợi hại thế nào, hóa ra lại được cầm đầu bởi một kẻ không biết đếm.”
Mọi ánh mắt đều đổ dồn về nơi ấy, nhiều người cảm giác thanh âm vừa rồi khá quen tai, chưa kịp nhớ là của ai thì đã thấy một chiếc quan tài phóng ra, nhằm thẳng vào tọa đài hướng đông bắc của tế đàn mà rơi.
Kế đó lại có một bóng người bay xuống, thân hình dong dỏng cao, khoác trường bào màu trắng, mái tóc hoa râm phất phơ, đôi lông mày dài bạc trắng, hai mắt sáng trưng như điện.
Người vừa xuất hiện, bất ngờ thay lại chính là Văn Hạc. Lão nhẹ nhàng đặt chân lên nắp quan tài, dáng đứng thẳng tắp như một cây tùng. Ngoại trừ điệu bộ vẫn thấy thường ngày, trên người lão lúc này còn toát ra một tầng khí chất siêu phàm thoát tục.
“Lý Hóa Văn?” Công Tôn Khánh giả kinh ngạc thốt lên. “Lão già ngươi vẫn chưa c·hết?”
“Tôn Bảo, không cần phải tỏ ra vui mừng như thế đâu.” Văn Hạc mỉm cười đáp. Tôn Bảo chính là tên thật của Công Tôn Khánh giả này.
Sau khi từ bên ngoài trở về, Văn Hạc sơ ý hít vào thất điên bát đảo loạn thần tán, kết hợp với độc của băng hỏa tri thù còn sót lại trong người, dù chỉ một ít thôi cũng khiến lão trọng thương suýt m·ất m·ạng.
Hỗn hợp độc này chẳng những vô cùng lợi hại, hơn nữa còn rất khó đề phòng, ngay cả một người dành gần nửa cuộc đời gắn liền với dược đạo như Văn Hạc cũng không kịp nhận ra cho tới khi trúng phải.
Hôm ấy, c·hất đ·ộc do tên đệ tử mạo danh bắn ra có liều lượng không nhỏ, đúng là đủ sức lấy mạng lão. Chỉ là sau hai lần trước đó, lão đã luyện chế ra được thuốc giải cho thứ này, thế nên không hề hấn gì.
Tuy nhiên, Văn Hạc chợt nhận ra rằng, lần thứ nhất trúng độc có thể là tình cờ, nhưng lần thứ hai khả năng cao là không phải, mà lần thứ ba thì chắc chắn là nhắm vào lão.
Còn việc Lý Vũ liên tục bị q·uấy r·ối, có lẽ chỉ là để khiến lão phân tâm, từ đó kẻ địch thừa cơ hành động.
Mặc dù kẻ q·uấy r·ối là Tử Dương phong chưởng tọa đương nhiệm, đến giờ vẫn chưa có hành động phản trắc nào khác, nhưng xét tình hình hiện tại, tạm thời cũng không cần để ý đến hắn, chờ sau này rồi sẽ điều tra rõ ràng.
Quay trở lại với thứ kịch độc ngẫu nhiên được phát hiện ra kia, ngoài Văn Hạc thì chỉ có bảy người biết, dù có người thứ chín cũng không thể nhanh như vậy, hoặc trùng hợp xuất hiện đúng lúc như vậy được.
Nghi vấn này thật sự rất khó tin, nhưng nếu có k·ẻ g·ian nằm trong bảy người đứng đầu của Thất Dương tông thì vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, trong thoáng chốc ngắn ngủi, Văn Hạc đã chợt nghĩ ra một cách, đó chính là giả c·hết.
Bởi chỉ cần lão chưa c·hết, kẻ địch chắc chắn vẫn sẽ tiếp tục, hoặc nếu như chúng chuyển mục tiêu sang người khác, vậy thì người đó e rằng khó thoát khỏi được độc thủ, mà việc tìm ra k·ẻ g·ian lại càng trở nên phức tạp.
Thế là nhân lúc Vương Mệnh Tung đến xem bệnh, Văn Hạc liền nhờ vị trưởng lão này giúp mình. Vương lão bế quan ba ngày chính là để luyện chế một loại đan dược gọi là hư tức đan, người uống vào sẽ không khác gì một xác c·hết.
Việc giả c·hết này khiến kẻ địch không còn chú tâm đến Văn Hạc nữa, mà lão thì có thể âm thầm quan sát từ trong bóng tối, tìm cách ngăn chặn âm mưu của bọn chúng.
Đêm tại Hổ Di sơn, Văn Hạc cũng có mặt, nhưng đang chuẩn bị hành động thì Công Tôn Khánh thật đã nhảy ra, thế nên lão lại ẩn mình đi. Lúc Lam Dương phong chưởng tọa bị mắc bẫy, lão chính là người áo đen bất ngờ xuất hiện rồi ứng cứu.
Ngoài ra, mười bảy tên gián điệp trong thân phận trưởng lão còn sót lại cũng là do Văn Hạc điều tra rồi nói cho tông chủ. Nhưng việc lão còn sống, Lạc tông chủ chỉ mới biết cách đây không lâu, đó là lúc tiến vào Táng Dương sơn để dâng hương.
Bấy giờ, với sự có mặt của Văn Hạc, vốn là Tử Dương phong chưởng tọa tiền nhiệm, sáu vị trí trên tế đàn đã có người trấn giữ.
Phải biết rằng, Thất Dương đại trận cần ít nhất năm người để khởi động, tuy nhiên, nếu có thể nhiều thêm một người, uy lực sẽ càng tăng thêm gấp bội, mà khi có đủ bảy người, trận pháp này sẽ phát huy được toàn bộ sức mạnh của nó.
Văn Hạc khẽ nhấc chân, đá chiếc quan tài bay về phía tọa đài nằm ở hướng chính nam, sau đó nhìn Vô Âm giáo chủ bằng một ánh mắt lạnh lẽo.
“Nói cho ngươi biết, trận pháp khiến tên phản trắc Sử Toán Anh năm xưa chỉ mới nhìn thấy là liền cúp đuôi chạy, hôm nay không chỉ có bốn người, mà là đầy đủ cả bảy người. Chịu c·hết đi!”