Lại quay về Quỳ Trang sơn cốc, nơi mà Hoàn Thừa Lân cùng các nghĩa huynh đã ẩn náu suốt vài ngày qua. Trong thời gian này, Thừa Lân cứ theo chỉ dẫn của Ô Di Hà mà chăm chỉ luyện tập điều hòa nhịp thở, hoàn toàn không làm gì khác. Chỉ sau vài ngày, khả năng vận dụng nội công của Thừa Lân đã tăng tiến ở mức đáng kinh ngạc. Bản thân chàng cảm thấy kinh mạch trong cơ thể hanh thông, có thể điều hướng nhanh và nhiều hơn trước đáng kể. Chàng đem chuyện này nói cho Ô Di Hà.
Hà đáp, “Đệ cho ta tận mắt chứng kiến đệ đã tiến bộ nhường nào.”
Lân gật đầu. Chàng cầm thanh Không Ngưng Kiếm trên tay, múa những chiêu mà mình đã luyện tập thuần thục là Kinh Vân Ảnh và Phiêu Tuyết Xuyên Vân. So với lần trước, đường kiếm đã thanh thoát lại càng thanh thoát hơn, nhẹ nhàng như cánh hạc vỗ trên mây xanh, lúc thì tạo ra linh khí mờ ảo tựa mây mù, mỗi lúc lại một hình thù khác nhau—cây cỏ, núi non, sông hồ đều in được phía trước mũi kiếm. Quả nhiên khả năng điều khiển ảo ảnh của Lân đã tốt hơn rất nhiều, đã bước vào ranh giới mĩ thuật. Dường như chỉ trong vài ngày, thiếu hiệp này đã đột phá từ Nhất Tầng Sơ Cấp lên Trung Cấp. Ô Di Hà thật khó tin rằng Thừa Lân mới chỉ đang ở tầng nội công thứ nhất với những gì chàng thể hiện.
“Bậc kì tài này thật khó có thể tìm ra được,” Hà nghĩ thầm. “Mình phải hết sức dìu dắt Hoàn đệ. Chiến trường hiểm ác không dung tình, nếu như cậu ta yểu mệnh trước khi kịp khai phá tiềm năng thì sẽ là đại bi cho Kim quốc.”
Nghĩ xong xuôi, Ô Di Hà mới nói, “Mấy ngày qua luyện tập hơi thở như vậy là có nhiều tiến bộ rồi. Có lẽ ta nên đổi vị một chút, kẻo nhàm chán qua đệ không chịu.” Nói rồi, rút thanh đao phía sau lưng ra. Thanh đao này của Ô Di Hà nhìn không có gì đặc biệt, nhưng kẻ tinh ý sẽ nhận ra phần gỗ hương bọc đồng ở phần cán kiếm đã hàng trăm tuổi, cùng với hình rồng được khắc chìm hai bên lưỡi đao. “Tàng Long Đao của ta cũng có vài trò hay, hôm nay sẽ mua vui cho đệ vài phen.”
“Chẳng phải huynh dùng thanh Bán Nguyệt Đao sao?” Thừa Lân hỏi.
“Vào sinh ra tử vài lần, ta cũng sưu tập được vài thanh đao quý. Đâu phải nhất thiết ta chỉ có một v·ũ k·hí?” Hà đáp. “Vậy đệ muốn thỉnh chiêu không?”
Thừa Lân gật đầu. Đây là cơ hội tốt để chàng nâng cấp kiếm pháp căn bản của mình. Trong kiếm phổ có chỉ dạy kĩ càng các chiêu thức căn bản để luyện bốn thức đầu tiên của Khôi Tùng Kiếm Pháp. Khác với Kinh Vân Ảnh chỉ là một hư chiêu có giá trị sử dụng trong trường hợp cụ thể, Khôi Tùng Kiếm Pháp là cả một hệ thống kiếm thuật đồ sộ được chính sư tôn Ni Kham Gia Đồng phát triển từ Hạc kiếm pháp cơ bản đi lên, có nhiều điểm tương đồng với kiếm pháp của phái Võ Đang thuộc Trung Nguyên, đường kiếm xuất ra dẻo dai như cây tuyết tùng, mềm mại như thiên nga vỗ cánh. Nếu có thể lĩnh hội được kiếm pháp này, công lực của Thừa Lân sẽ tăng lên vài phần.
Ô Di Hà múa năm đao thức cơ bản của Đắc Kỷ phái, đều là những đòn chém nhanh, mạnh, tập trung vào mãnh lực, tốc độ, và sức công phá. Thừa Lân tập trung vào múa thức đầu tiên của Khôi Tùng Kiếm Pháp, là một đường lia kiếm thành vòng cung ở trước mặt, trước khi thu tay lại và gảy mũi kiếm ra phía trước.
“Lại đây, ta với đệ làm vài hiệp!” Hà bước lên phía trước một bước, tiếng đao chém vun v·út trong không khí, mỗi đường đao đều để lại phía sau một dải nội công sắc nâu.
“Xin được thỉnh chiêu!” Thừa Lân xuất thức thứ hai của Khôi Tùng Kiếm Pháp. Cánh tay chàng dẻo dai di chuyển, đường kiếm uốn lượn như một con mãng xà trườn trên mặt đất, kiếm ảnh tạo ra ở nhiều điểm nối đuôi nhau trên không trung, cứ như nhiều thanh kiếm dừng lại ở những điểm đó. Tất nhiên, động tác của Lân chưa được nhuần nhuyễn, Ô Di Hà vẫn quan sát được đường kiếm cuối cùng của chàng nhắm tới đâu. Khi Thừa Lân đâm tới, Hà đã lách được sang một bên, thanh đao chém ngang cổ của chàng. Thừa Lân lập tức lật người sang một bên, lách xuống dưới đao của Hà mà tránh. Chỉ là luyện tập nên tốc độ ra đòn của hai người đều được khống chế, không có giây phút nào là gây nguy hiểm cho đối phương.
Không mất nhiều thời gian để Ô Di Hà chiếm thế thượng phong. Các đòn đao cương mãnh của Đắc Kỷ Đao Pháp đều là những đòn yêu cầu đao nhân dồn trọng tâm thân trước lên phía trước để chiếm hữu không gian, và điểm kết thúc đều là những cú chém ngang và chéo vào những bộ phận hiểm yếu ở thân trên như ngực, cổ, và bả vai. Thừa Lân dùng thức thứ nhất của Khôi Tùng Kiếm Pháp để điều hướng lưỡi đao của Hà và gảy chúng đi, nhưng nội lực trong thanh đao của Hà vô cùng dồi dào, lưỡi kiếm của Thừa Lân chạm vào đao như chạm vào sơn thạch, dù chàng có vận nội công hết mức vẫn b·ị đ·ánh bật lại năm bước. Tay chàng lại tê rần hệt như lần giao đấu với Ô Di Đạo.
Ô Di Hà thấy vậy, chỉ vận năm phần công lực, chém đến tiếp. Lân bây giờ đã có thể đỡ được đòn, nhưng do chưa thành thục kiếm pháp mới nên nhiều lần đỡ hụt, bất quá phải dùng bộ pháp để lách sang một bên hay lùi sang phía sau, liên tục bị Hà đẩy vào những vị trí bất lợi, phía sau là cây cối um tùm, ít không gian di chuyển. Nhưng Lân vẫn thủy chung đáp trả các đòn t·ấn c·ông b·ằng Khôi Tùng Kiếm Pháp chứ không trở về sử dụng những kiếm thuật mình đã thành thục. Sau vài lần thất bại nữa, cuối cùng chàng đã một lần điều hướng thành công đại đao của Ô Di Hà, khiến nó chém vào thân cây tùng phía sau, khía vào đó một nhát chém sâu một phân.
“Khá; khá lắm,” Ô Di Hà khen.
Bất chợt ở phía sau lưng có tiếng bước chân rảo bước đến. Cả Hà và Lân trông ra thì là người quen.
Cổ Mạnh Ninh xuất hiện từ trong bóng đêm, hai tay chắp sau lưng. Sau lâu ngày phải lăn lộn trong thâm lâm, họ Cổ chưa bao giờ được tắm rửa một lần tử tế nên mặt mũi lấm lem. Hôm nay mới được đun nước thơm tắm lần đầu, Thừa Lân mới thấy da dẻ của họ Cổ sáng láng, nét mặt vuông vức, mái tóc đã được cắt ngắn đi gọn gàng, mang vẻ đẹp tuấn tú anh dũng của một bậc nam nhi trưởng thành.
Cổ Mạnh Ninh nói, “Hai huynh đệ luyện tập cùng nhau, sao không rủ Mạnh Ninh vào góp vui?”
0