0
Tháng 3 năm 07 lịch Việt. Quân đội nhân dân Việt tập hợp với quân số 600 ngàn quân. Chia thành các quân đoàn lần lượt: Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam, Trung Tâm, Di Châu.
Cả 6 quân đoàn lần lượt bao vây từ các hướng với đầy đủ binh chủng của quân đoàn gồm: thủy quân, bộ binh, công binh đảm bảo đập tan tất cả chướng ngại.
Đi theo các quân đoàn đều có đội vận chuyển khổng lô phục vụ bằng trâu, bò, lừa, ngựa để vận chuyển hàng hóa. Việc vượt sông do quân khu Tây Nam phụ trách sau đó các quân đoàn tự bố trí chiến đấu theo kế hoạch.
Quân đoàn Đông Bắc và Tây Bắc đánh từ phía Bắc xuống với 200 ngàn quân. Địa hình phía Bắc của Rắn quốc đa phần là đồi núi.
Quân đoàn Tây Nam cùng quân đoàn Trung Tâm tấn công trực diện đánh từ hướng Đông qua Tây.
Quân đoàn Đông Nam triển khai tấn công, bao vây khu vực đồng bằng phía Nam.
Quân đoàn Di Châu tấn công từ phía Tây tức là đánh từ ngoài biển vào.
Lần tấn công này, nước Việt đã huy động nửa quân số, tuy nhiên gần như không ảnh hưởng tới sản xuất cùng lắm chỉ là phải cung cấp nhiều hơn cho chiến trường nên tất cả mọi người công nhân, nông dân trên nước Việt đều đang nhiệt tình tăng ca, tăng năng suất làm việc.
Bởi họ biết rằng ngoài chiến trường kia là con em của họ đang chuẩn bị lao vào chiến đấu, sông chết để bảo vệ binh an cho đất nước. Vậy bỏ công sức có là gì so với những người sẵn sàng hi sinh cả tính mạng.
Lần chiến tranh này không chỉ mục đích trả thù Rắn quốc mà còn là 1 lần luyện binh cho nước Việt bởi ngoài số binh lính đã trải qua chiến đấu thời đầu lập quốc thì đa số binh sĩ sau này chưa trải qua chiến đấu thực tế.
Mà đối với quân đội nước Việt thì 1 tiêu chuẩn của binh sĩ không chỉ là qua huấn luyện mà còn phải qua tẩy lễ bằng máu quân thù mới chính thức được trong quân công nhận.
Để giảm thiểu tối đa thiệt hại, lần này quân đội trang bị đến tận rang cho các chiến sĩ.
Bộ binh sử dụng thương, đao toàn bộ được làm từ loại thép tốt hơn rất nhiều so với vũ khí bán cho các nước phương Đông.
Vũ khí cận chiến là vậy thì vũ khí tầm xa thì càng vượt trội hơn đó là cương nỏ, với tốc độ lắp tên nhanh hơn cũng như lực bắn tốt hơn nhiều.
Ngoài ra, tất cả bộ binh đều được tranh bị giáp lưới để giảm thiểu trọng lượng cũng như dễ hoạt động hơn. Số lớp lưới thì cứ tùy vào thể trạng của từng người mà mang.
Trang bị pháo binh thì sẽ dùng thiết kế mới của cục quân khí chính là các giàn pháo với lực được tạo tương tự như nỏ mà thay vì bắn tên thì lại bắn đạn là những bình gốm chứa dầu đen mới được khai thác ở phía đông hoặc bình gốm chứa thuốc nổ.
Bởi sau khi thăm dò mới biết được Rắn quốc không phát triển nhiều về quân đội nhưng xây thành trì lại rất kiên cố và đẹp.
Nhiều lần quân Việt tấn công tới chúng sẽ đóng cổng thành lại mà nằm trong đó thà chết không ra. Vậy nên muốn đánh thắng chúng thì phải có biện pháp công phá được thành trì.
Nước Việt quyết định sử dụng thuốc nổ thay vì sử dụng xương máu để leo lên thành bởi dù sao thành trì không bao giờ nằm trong kế hoạch tương lai của quân đội.
Riêng về phía quân đoàn Di Châu thì đây là toàn bộ binh sĩ đã trải qua huyết tẩy bởi họ được tập hợp từ quân Việt tham chiến ban đầu cũng như những binh sĩ bại trận trong chiến tranh bị bắt lại vậy nên việc chém giết với họ là điều không lạ lẫm.
Tất cả những binh sĩ đều biết được việc lập chiến công trên chiến trường là con đường ngắn nhất để đạt được tất cả danh tiếng, địa vị, tiền bạc nhất là với trận chiến này có ý nghĩa to lớn với nước Việt.
Các binh sĩ mới gia nhập của Di Châu lại càng trông mong hơn bởi chỉ cần chiến thắng sau trận chiến này trở ra, họ sẽ là những công dân được đầy đủ quyền, được công nhận, lương bổng, đủ tiền lo lắng cho gia đình, vợ con đang lao động khó khăn trong thời gian thử thách của Di Châu đối với người mới.
Tất nhiên người Di Châu đa số mới nhập tịch nên đăng kí cực đông nhưng cũng vì vậy mà tỉ lệ chọi lên tới 1 chọi 10. Thế nên những binh sĩ này có tố chất, kinh nghiệm, kĩ năng chiến đấu cực kì cao.
Thậm chí chỉ cần thả vào chiến trường với sức chiến đấu và tinh thần cao ngất cùng với vũ khí, trang bị tinh lương vậy, mỗi người sẽ trở thành cỗ máy giết chóc khiến mọi kẻ địch phải khiếp sợ.
Dù sao những kẻ đã đi ra từ núi thây biển máu trong các cuộc chiến tranh qui ước của phương Đông là kinh khủng như thế nào.
Trong tuần đầu tiên nổ ra chiến tranh, các tin báo liên tục báo về tổng bộ.
Hướng tiến công phía Bắc chia làm 2 nhánh nhỏ 1 nhánh phía Đông và 1 nhánh phía tây đều lần lượt tiêu diệt từng cứ điểm nhỏ trên đường.
Quân địch sử dụng chiến thuật du kích để quấy nhiễu nhưng quân Việt lập tức thả khuyển binh ra làm việc lập tức việc quấy nhiễu đêm được kiểm soát.
Trên đường, thám báo liên tục chạy kiểm tra khiến kẻ địch cũng không thể làm gì.
Dân chúng nơi những địa phương đi qua được tuyên truyền cũng như đội tuyên huấn làm việc có hiệu quả kết hợp với giúp đỡ, cho ăn, khám bệnh nên lấy được lòng dân nơi đi qua.
Tuy nhiên, cả 2 đều đang mắc kẹt tại 2 thành trì lớn mà chưa thể hạ được bởi Rắn quốc trong thành có hào rộng 4m, sâu 3m. Chân thành ngay sát với hào, thành cao 5m chỉ có 4 cửa vào ra. Cửa cũng chính là cầu qua sông.
Rắn quốc đã là quốc gia sử dụng đồ sắt tuy nhiên còn hạn chế về trình độ nên vũ khí cực nặng và kém chất lượng.
Thế nhưng chúng cũng đủ gây thương vong cho binh lính Việt, đã có 30 binh sĩ tử trận, bị thương 50 người sau 1 tuần đầu tiên của phía Bắc.
Hướng phía Đông cũng diễn ra tình hình tương tự vậy, mắc kẹt tại đại thành trì.
Hướng phía nam, Quân đang thể hiện rõ ưu thế của kị binh có trang bị tinh lương so với kị binh có mỗi cây đao.
Quân đoàn Đồng Bằng đã hoàn toàn tiêu diệt kị binh của địch ở đây, khiến chúng rút lui toàn bộ về thành nằm ở sát dãy núi cao.
Quân đoàn Đồng Bằng được tổ kiến từ kị binh nên công thành là điều không thể, thế nhưng dùng pháo bắn phá thành thì lại cực kì dễ vì họ có nhiều ngựa, tha hồ kéo lượng lớn pháo, trang bị, thuốc nổ…. đến bắn cả ngày cả đêm khiến cho quân Rắn quốc không thở nổi dự kiến trong 1 tuần nữa địch trong thành cũng phải chết hoặc bỏ thành đầu hàng.
Quân đoàn Di Châu cũng tỏ ra hiệu quả rõ ràng hơn. Toàn bộ biển của Rắn quốc đã bị phong tỏa, các tòa thành ven biển của chúng cũng liên tục bị bắn phá ác liệt trong 5 ngày rồi, hiện tại còn không thấy tên lính nào dám lên thành, thế nhưng Hùng quân đoàn trưởng vẫn cẩn thận tiếp tục cho nổ tan cả 4 cổng sau đó mới tính tới chuyện cho lính tràn vào thành.
Sự cẩn thận của 2 quân đoàn trưởng đều hợp lí bởi con người là quan trọng dù sao bước tiến của họ đã là rất nhanh. Chỉ cần tiếp tục bắn phá thêm 1 2 hôm nữa thì tức khắc quân trong thành thấy cửa, thành đã nát tan thì tự khắc kiếm 1 kẽ hở thời gian mà rút chạy về phía kinh đô.
Chỉ đạo chung của tổng chỉ huy chiến dịch đức vua Sơn đề ra.
Tất cả các hướng đánh tiêu hao sinh lực địch, uy hiếp khiến kẻ địch sợ hãi. Đồng thời chừa cho chúng 1 con đường để chúng rút về kinh đô.
Tuy nhiên truy đuổi gắt gao để chỉ có binh lính chạy đi mà thường dân không bỏ chạy.
Muốn vậy, ở những khu vực ngoài thành liên tục phải thu phục được những người dân của Rắn quốc giàng giải về những điều tốt đẹp khi là công dân của nước Việt. Từ những người này, tới các thành khuyên nhủ những người dân khác k nên chạy theo binh lính, quan lại Rắn quốc.
Ngoài ra còn kêu gọi con em binh lính cũng tự đầu hàng quân đội Việt để được hưởng sự khoan hồng. Thậm chí có công thì còn được thưởng trâu bò, lợn, gà….
Vậy là cả ngày lẫn đêm phía Rắn quốc đứng trên thành không thấy quân Việt ở đâu mà chỉ thấy những ông già, bà lão chống gậy đi tới dưới chân thành lớn tiếng gọi.
Thằng Tý! Tý đâu rồi! mày về nhà ngay đánh đấm gì! Quân Việt đến đây cho chúng ta đồ ăn, quần áo, quân Việt chỉ trả thù những kẻ giết người Việt thôi không liên quan tới chúng ta. Mày đánh nhau quân Việt lại liên lụy tới cả làng đó nge chưa! Về ngay!
Cứ liên tục mấy ngày, có hàng ngàn ông già bà lão chống gậy tới gọi con em mình trở về.
Đám binh lính này trở về xong lại quay lại kêu gọi đám đồng bạn cũng buông vũ khí.
Nhìn xuống dưới thành, mấy tên đã trở về nhà kia ăn mặc quần áo mới, da dẻ hồng hào, vì được ăn uống đầy đủ chứ không như đám đang thủ trong thành cứ như lũ chuột hôi hám bẩn thỉu mà gầy gò.
Nên cứ vậy từ những tòa thành có hơn 5000 quân thì giờ đây chỉ còn hơn 1000 quân đa phần là thân binh.
Không những vậy, có nhiều tòa thành ở biên giới toàn quân đầu hàng, giải giáp về quê mà không cần mất 1 mũi tên.
Cuối cùng chỉ sau 2 tuần gần như tất cả thành trì đều tự giải tán quân đội hoặc những tướng lĩnh cấp cao đem theo thân binh chạy về Ổ Rắn cũng chính là kinh đô Rắn quốc.
Lúc này, tòa thành Ổ Rắn tập trung lượng binh lực lên tới 4 vạn quân, đây chỉ là 1/10 binh lực của Rắn quốc nhưng đa phần đều đã trở về mà chỉ còn 4 vạn quân này là thân binh của các tướng lãnh nên không thể về mà thôi, đa phần họ đã được tẩy não từ nhỏ hoặc gia đình đều có gắn bó mật thiết với tướng lãnh của họ.
Cũng giống như đa phần các quốc gia khi bị tấn công sẽ tìm 1 nơi để co cụm phòng thủ còn những nơi khác thì sẽ tiến hành chiến dịch vườn không nhà trống, tức là toàn bộ nhà cửa, công trình, hoa màu, ruộng đều bị phá không để lại thứ gì để khiến cho quân đội đối phương vì đói mà tự rút lui.
Chiến thuật vườn không nhà trống này rất thích hợp trong cuộc chiến với đội quân viễn chinh nhưng đây là đối đầu với quân Việt.
Với lịch sử nước Việt trải qua bao nhiêu cuộc chiến cả 4000 năm dân tộc.
Sơn thừa hiểu rằng những mặt của chiến thuật này.
Việc phá hoại như vậy sẽ khiến đội quân viễn chinh không đủ nhu yếu phẩm, thế nhưng đó là đối với đội quân theo trường phái lấy chiến nuôi chiến thường là quân đội xuất phát từ các bộ lạc như quân Nguyên.
Nhưng quân Việt ở đây lại có đội tàu hùng hậu chạy bằng hơi nước vậy nên việc vận chuyển lương thực từ nước Việt tới là không hề khó khăn, không những vậy, trong quân còn có đội vận tải với lượng lớn trâu bò thồ hàng thì việc đói là không thể xảy ra.
Không những vậy việc phá hoại toàn bộ làng mạc, hoa màu, công cụ này khiến cho những người bị ảnh hưởng ngay lập tức chính là dân thường bởi họ không có nhiều tài sản tích lũy, cái ăn hằng năm cũng chỉ trông chờ vào mấy mẫu ruộng mà thôi.
Quân đội Rắn quốc còn lại đốt sạch các làng mạc khiến cho tiếng ai oán của dân kêu thấu trời.
Sau khi đốt phá làng mạc thì bước tiếp là lùa hết dân chúng vào rừng để tránh quân Việt kiểm soát nhưng lùa hết được sao. Điều này là không thể.
Người dân vốn trong kham khổ nên bản năng sinh tồn cũng rất khá thế nhưng khi quân Việt tới không phải với những thanh đao trên tay mà là những bát cháo thơm ngọt.
Cái nhìn của người dân Rắn quốc cũng khác hắn.
Quân Rắn quốc thì đốt phá làng mạc, nhà cửa, ruộng vườn, lại lùa họ vào rừng ăn hang ở lỗ.
Quân Việt lại tới với đồ ăn trên tay, sau đó lại cùng người dân xây dựng lại nhà cửa, hỗ trợ cây giống, vật nuôi.
Người dân biết chọn ai rồi chứ. Tất nhiên người dân không ngu, họ, những người ở lại được giúp đỡ liền đi kêu gọi anh em họ hàng trở về, tất cả truyền miệng nhau từng làng, bản đều lục tục kéo nhau trở về.
Cứ như vậy trong vòng 4 tháng đầu tiên, quân Việt đã đạt được 1 nửa thành công rồi bởi hiện tại 90% dân số Rắn quốc đã nằm trong kiểm soát nước Việt.
Chỉ còn 10% dân số sông ở kinh đô Tổ Rắn mà thôi.
Vậy nên trong 4 tháng tiến quân nhanh thì 5 tháng tiếp theo quân Việt gần như dậm chân tại chỗ tạo thành 4 hướng bao vậy kinh đô Tổ Rắn.
Việc có được số dân đông đúc nhưng lại là gánh nặng bởi tạm thời họ không thể sản xuất được thứ gì để sông vậy nên bộ chỉ huy tiền tuyến đã đưa ra quyết định.
Đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chậm thắng chắc.
Đầu tiên là trưng dụng những thành trì đang bỏ hoang, thanh lập các chính quyền địa phương cũng như tại đây thành lập các kho lương trung chuyển.
Như vậy ngoài việc huy động lượng lớn lương thực từ nước Việt qua chủ yếu là bột khoai lang, khoai tây ra còn huy động 1 lượng lớn cán bộ địa phương dày dặn kinh nghiệm qua để ổn định dân cư ban đầu.
Cứ như vậy lại 1 lần nữa quân đội ở các vùng trên nước Việt ngoại trừ Di Châu cử thêm ¼ binh lực tới đây ổn định trật tự cũng như hỗ trợ phát triển địa phương.
Bởi thời gian đầu từ trong rừng trở về người dân đều rất đói khát, gầy trơ xương. Khi nhìn thấy những nồi cháo thơm phức nóng hổi lập tức ùa vào tranh giành nhau tại nhiều nơi.
Thậm chí nhiều chỗ còn phán ảnh tình trạng chen lấn, xô đẩy, giành giật dẫn tới bỏng cũng có dẫm nhau tới án mạng.
Tận dụng cơ hội này, bộ văn hóa truyền thông cũng thảo 1 bài hịch tới các địa phương của Rắn quốc.
Hỡi người dân Rắn quốc thân yêu!
Nước Việt yêu chuộng hòa bình bao đời yên ổn sống!
Cớ sao Rắn quốc vua quan không muốn!
Mang đồ đao lạm sát dân ta!
Máu chảy thành sông, xương chất đầy đồng!
Vua nước Việt ta nhìn con dân mà đau xót.
Dẫn quân sang hỏi tội mấy tên kia.
Cớ lại lai dấy can qua.
Đốt cửa nhà, ruộng vườn của dân.
Người dân đâu có tội tình.
Khiến bao người tan cửa nát nhà vì đâu.
Thương dân lầm than khốn cảnh.
Vua nước Việt rộng lượng nhân từ.
Cứu vớt người người qua cảnh lầm than.
Từ nay Rắn quốc, Việt quốc chung một nhà.
Cùng lên đánh giết gian tà cùng nhau.
Bài hịch này cũng chỉ đơn giản nói cho người dân Rắn quốc biết tội ác của đám vua quan Rắn quốc khiến cho người dân Rắn quốc giờ đay nhập vào nước Việt cùng nhau tiêu diệt đám vua quan Rắn quốc.
Lại nói về việc tiếp nhận người dân ở những vùng mới này.
Nước Việt ngoài cử nhân sự và lương thực đem qua điều phối cứu trợ còn phải cử 1 lượng quân đội điều phối người dân xếp hàng vào nhận cháo.
Khi có quân đội hiền từ nhưng đeo thanh đao sắc bén sau lưng thì người dân nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành giống như ở 1 nơi nào đó, chỉ có quân đội mới ổn định tình hình được tránh những thành phần gây loạn xã hội lợi dụng thời cơ.
Những ngày đầu chỉ đơn giản là cháo loãng nấu liên tục, trung bình mỗi điểm phát phục vụ 2000 dân có đến 5 nồi cực lớn để nấu nhừ cháo cũng như thịt, lại có thêm 10 nồi giữ lửa nhỏ để múc cháo cho người dân, mỗi người dân sẽ được phát 1 bát sứ cùng 1 chiếc thìa để ăn không phân biệt già trẻ lớn bé.
Sau 1 ngày nghỉ ngơi ổn định thì tất cả mọi người đều phải tham gia vào làm việc tùy theo sức của mình.
Đàn ông cùng quân đội chia theo từng nhóm đi dựng lại nhà cửa tạm thời cho mọi người ở.
Phụ nữ cùng trẻ em thì sẽ ngồi làm việc khác như nấu nước, nấu cháo, đánh tranh làm mái, quét dọn vệ sinh.
Lại có những tốp người lớn và binh sĩ cùng nhau ra sông đánh bắt cá bởi ở thời kì này cá cực nhiều nên việc đánh bắt cá khá dễ dàng nhờ đó cũng giảm gánh nặng lương thực cho nước Việt.
Tất cả các nơi trong vùng kiểm soát đều chủ động được nguồn thịt đa phần từ cá chỉ cần tinh bột là khoai, khô từ nước Việt chuyển qua mà thôi.
Sau khi ổn định được chỗ ở tạm thời bằng các lán trại tập trung cũng như có nguồn cá liên tục đủ cung cấp.
Những cán bộ nông nghiệp nước Việt lại hướng dẫn người dân trồng khoai, ngô lại trên những cánh đồng, kết hợp với đó là chăn nuôi gia súc như thỏ, chuột lang, trâu bò, dê, lợn.
Tại sao lại chọn những loại cây như khoai hay ngô, sắn đơn giản bởi chúng trồng nhanh và dễ dang, không yêu cầu ruộng đất đẹp như lúa đồng thời năng suất của những cây này cao hơn lúa rất nhiều.
Lại có những vật nuôi lấy sức kéo cũng như vật nuôi lấy thịt nhanh sẽ ổn định phần nào lương thực địa phương khi mà nguồn cá đã giảm sút. Không những vậy, chúng đều là động vật sử dụng phế phẩm nông nghiệp để chăn nuôi để tối ưu hóa cho nông nghiệp.
Sau khi quân đội, cán bộ quan chức tới hỗ trợ lại tiếp tục có không ít người dân tư nước Việt được cử qua đây để dạy người dân mới về canh tác cũng như chăn nuôi, làm việc.
Cứ vậy thông qua việc cứu trợ, lãnh thổ và dân số Rắn quốc cứ thế nhập vào nước Việt mà không còn cái tên Rắn quốc nữa.
Tại đây, phương án đồng hòa với lượng lớn dân cư vẫn phải dùng biện pháp cũ, sử dụng những quyền lợi lớn để di dời họ đến những vùng đất mới trộn lẫn với người Việt bản địa đó lớn hơn cũng như sử dụng văn hóa để đồng hóa những người dân này.
Bởi ở đây, làng mạc, nhà cửa đã bị phá hết không còn gì, họ ở lại gặp cảnh màn trời chiếu đất cũng không tốt nên gần như tất cả người dân đều đồng ý theo sắp xếp của nước Việt.
Tới vùng đất mới đều đã có nhà cửa, họ chỉ cần làm việc, con cái có thể gửi bán trú cả ngày hoặc gửi theo tuần, tháng, quý tùy vào người nhà. Trẻ con sẽ được cho ăn học đầy đủ, có tương lai hơn so với việc sống bữa này chưa biết ngày mai.
Cứ vậy, nghiễm nhiên người Việt có tới gần 5 triệu dân gia nhập, đặc biệt là toàn dân số trẻ, nâng cao năng suất lao động lên rất nhiều.
Tại vùng đất mới được nhập vào này, nội các quyết định xây dựng những cánh đồng mẫu lớn, thử nghiệm máy móc chạy bằng hơi nước lớn như máy cày, máy xới, gieo hạt, máy bơm để canh tác.
Vấn đề của canh tác diện tích lớn là việc sâu bọ, côn trùng phá hoại nhiều thì bộ nông nghiệp vẫn theo chủ trương đẩy mạnh chăn nuôi gà, vịt, giữ chim chóc nhằm cân bằng hệ sinh thái khu vực như vậy vẫn giữ được năng suất ổn định mà không cần tác động nhiều thuốc hóa học chưa ngiên cứu ra.
Nói thì đơn giản nhưng để đồng hóa được 1 dân tộc có quốc gia cũng phải mất ít cũng 50 năm cho những người lớn ở thế hệ này chết đi thì thế hệ sau mới lu mờ được.